Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và những công trình nổi tiếng
Ngô Viết Thụ, một kiến trúc sư lừng danh của Việt Nam, đã ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm kiến trúc hiện đại nổi tiếng, trong đó có Nhà thờ Phủ Cam, Dinh Độc Lập, Chợ Đà Lạt, Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn, Trường Đại học Sư phạm Huế và Trường Đại học Y khoa Sài Gòn.
Thông tin về Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
Ngô Viết Thụ sinh vào ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại làng Lang Xá, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông đã đoạt giải Khôi nguyên La Mã vào năm 1955.
Ông kết hôn với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi đang theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt (trước đây là Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh tại Đà Lạt). Ông và bà có tám người con, trong đó có tiến sĩ Ngô Viết Nam Sơn, cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia, hiện đang làm công việc tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Việt Nam, châu Á và Bắc Mỹ.
Năm 1950-1955, ông theo học kiến trúc tại trường Viện Kiến trúc Hoa Kỳ. Năm 1955, ông nhận giải thưởng lớn Rôma (hay còn được gọi là giải thưởng Khôi Nguyên La Mã) về kiến trúc và tốt nghiệp với tư cách kiến trúc sư D.P.L.G. Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của Viện hàn lâm Pháp tại Roma để nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Trong suốt ba năm này, ông tổ chức triển lãm kiến trúc, quy hoạch và hội họa hàng năm với sự tham gia của tổng thống Pháp và Ý trong buổi khai trương.
Từ năm 1960, ông trở về Việt Nam Cộng Hòa và làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của mình ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Ông được quan tâm lớn về dự án nối kết Sài Gòn và Chợ Lớn bằng một khu trung tâm hành chính quốc gia mới, nhưng dự án này không được thực hiện vì lý do thời gian và kinh phí.
Ông mở văn phòng tư vấn kiến trúc tại 104 Nguyễn Du và số 8 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ông đã tham gia vào nhiều dự án quy hoạch quan trọng, bao gồm Quy hoạch Làng Đại học Thủ Đức (1962), Quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh (1961, cùng với nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thế), và Quy hoạch Hội chợ Quốc tế cùng với thiết kế kiến trúc khu nhà triển lãm chính của Việt Nam tại Thủ Đức (1963). Ông cũng đã đóng góp vào quy hoạch cho nhiều đô thị và thị xã mới ở miền Nam Việt Nam, bao gồm Quảng Tín, Vị Thanh và Cheo Reo.
Ông là thành viên của Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ năm 1955 và Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958. Năm 1962, ông trở thành người châu Á đầu tiên được chọn làm Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.), cùng với nhiều kiến trúc sư nổi tiếng khác. Sau năm 1975, ông tiếp tục hoạt động và là cố vấn cho Hội Kiến trúc sư Việt Nam và Hội Kiến trúc sư Thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều nhiệm kỳ.
Ông đã thiết kế nhiều công trình nổi bật như Dinh Độc Lập, Viện Đại học Huế, Viện Nguyên tử Đà Lạt, Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, và Trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức.
Sau năm 1975, ông tiếp tục thiết kế nhiều công trình khác như Ty Thủy lợi Đắc Lắc, Bệnh viện Sông Bé 500 Giường, Khách sạn Century Huế và phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt.
Ông Ngô Viết Thụ qua đời đột ngột vào ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại nhà riêng số 22 Trương Định, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh do đột quỵ.
Những đóng góp nghệ thuật của KTS Ngô Viết Thụ
Ngô Viết Thụ không chỉ là một kiến trúc sư xuất sắc mà còn là một nghệ sĩ đa tài có đóng góp nghệ thuật đa dạng.
Ông đã thể hiện tài năng trong lĩnh vực hội họa với những tác phẩm nổi tiếng như “Thần tốc,” “Hội chợ,” và “Bến Thuyền,” cùng với bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này, gồm 7 bức, mỗi bức có kích thước 2m x 1m, đã được trưng bày trong Dinh Độc Lập ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc và hội họa, bao gồm triển lãm tại Tòa Đô chính vào năm 1960, tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn vào năm 1963 và tại Viện Kiến trúc Philippines ở Manila cũng vào năm 1963. Ông cũng đã tổ chức triển lãm tại nhiều địa điểm khác tại châu Âu và Mỹ, bao gồm hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris vào các năm 1956, 1957 và 1958, và tại Mỹ vào năm 1963.
Ngoài ra, ông còn là một nghệ sĩ điêu khắc, có tác phẩm điêu khắc kim loại được đặt trước toà đô chánh, và ông cũng thành thạo trong việc chơi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo. Ông cũng là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Những công trình kiến trúc nổi tiếng của Kts Ngô Viết Thụ
Ngô Viết Thụ – Người tạo nên biểu tượng Dinh Độc Lập cho Sài Gòn.
Ông Ngô Viết Thụ thể hiện sự am hiểu sâu sắc về phong thủy và tinh tế áp dụng kiến thức này vào từng tác phẩm kiến trúc của mình, điều này chỉ có người có kiến thức sâu về lĩnh vực này mới có thể nhận ra. Với ông, việc sử dụng phong thuỷ trong kiến trúc không chỉ là để trang trí, mà còn để chiêm nghiệm và kiểm tra xem nó có ảnh hưởng thực sự hay không, bởi phong thủy là một lĩnh vực khó mà không thể nói bằng lời.
Ngô Viết Thụ sinh ra tại Thừa Thiên Huế và trải qua một tuổi thơ khó khăn, trong hoàn cảnh túng thiếu, ông sống cùng ông ngoại và may mắn được học chữ Hán. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng kỹ thuật Đà Lạt vào năm 1948, ông nhận được sự giúp đỡ từ gia đình vợ để sang Pháp du học. Vào năm 1950, ông đã thi đậu vào Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris. Sau năm năm học tập, ông bảo vệ thành công đồ án tốt nghiệp và đạt danh hiệu kiến trúc sư xuất sắc D.P.L.G. Sau đó, ông được hưởng suất học bổng ba năm để nghiên cứu và sáng tác tại biệt thự Madicis của Viện Hàn lâm Pháp tại La Mã. Tại đây, ông đã tham gia cuộc thi thiết kế Ngôi thánh đường trên Địa Trung Hải với sức chứa 40 ngàn tín đồ. Đồ án của ông đã được chọn vào vòng chung kết, trong đó có 10 tác phẩm xuất sắc nhất. Cuối cùng, tác phẩm của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã giành được Giải thưởng Lớn Roma về kiến trúc (Premier Grand Prix de Roma).
Bản thiết kế giúp ông dành được giải thưởng lớn khi còn học bên nước ngoài
Ông là một thành viên của Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ năm 1955 và gia nhập Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam vào năm 1958. Đặc biệt, vào năm 1962, ông trở thành người châu Á đầu tiên được chọn làm Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.), đồng thời với một số kiến trúc sư nổi tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin.
Sau năm 1975, ông đã đóng vai trò cố vấn cho Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam và đã tham gia vào Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư TP HCM trong nhiều nhiệm kỳ, bao gồm cả nhiệm kỳ I, II, III và IV. Ông cũng là thành viên của tổ chuyên gia tư vấn kiến trúc cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thời gian ông Võ Văn Kiệt đảm nhiệm chức vụ.
Bút tích và chữ ký của KTS Ngô Viết Thụ
Năm 1960, khi ông Ngô Viết Thụ trở về Sài Gòn theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông mới 30 tuổi. Sự trở về Việt Nam đánh dấu một chặng đường mới trong sự nghiệp kiến trúc của ông, mở ra trước mắt ông nhiều cơ hội để thể hiện tài năng của mình. Các công trình kiến trúc do ông thực hiện tại Việt Nam đã để lại dấu ấn vượt trội cả về khía cạnh kỹ thuật và mỹ thuật, chứng tỏ sự xuất sắc của ông trong lĩnh vực này.
Mặt tiền…
…và một phía thân chữ T
Đây là công trình đầu tiên của ông sau khi tốt nghiệp và trở về từ phương Tây. Tuy vậy, ông không bị ràng buộc bởi một phong cách kiến trúc hiện đại phương Tây cố định mà thể hiện sự kết hợp tinh tế và hòa quyện với kiến trúc Á Đông, đặc biệt là kiến trúc truyền thống của Việt Nam. Được biết đến như một trong bộ ba công trình kiến trúc đặc biệt của ông, gồm Dinh Độc Lập, Chợ Đà Lạt và Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi công trình đều có tên định dạng hình chữ T bằng chữ cái đầu của tên của ông, THU (Theo tiếng Pháp: Thụ).
Khi thiết kế Dinh Độc Lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, đồng thời thể hiện triết lý cổ truyền và nghi lễ Phương Đông cũng như bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ông đã tạo sự hòa quyện giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại và kiến trúc truyền thống của Phương Đông trong công trình này. Bình diện toàn cảnh của Dinh Độc Lập có hình dạng chữ CÁT (吉) trong tiếng Phục Kiến, mang ý nghĩa là tốt lành và may mắn. Tâm của Dinh là nơi đặt phòng Trình quốc thư. Lầu thượng của Dinh được thiết kế thành hình chữ KHẨU (口) để tôn vinh giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU này có cột cờ chính giữa, tạo thành hình chữ TRUNG (中), thể hiện ý muốn có dân chủ phải đặt lòng trung kiên. Ba nét gạch ngang tạo ra bởi mái hiên của lầu tứ phương, bao gồm danh dự và mái hiên của sảnh tiền đạo, hình thành hình chữ TAM (三), thể hiện quan niệm rằng để có dân chủ, cần phải có sự kết hợp của Nhân, Minh và Võ. Ba nét gạch ngang này được nối với nét chữ dọc, tạo thành hình chữ VƯƠNG (王), biểu trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của Dinh, toàn bộ bao gồm lầu 2 và lầu 3, kết hợp với mái hiên của sảnh tiền đạo và hai cột bọc gỗ ở dưới mái hiên, tạo thành hình chữ HƯNG (興), thể hiện hy vọng rằng đất nước sẽ hưng thịnh mãi mãi.
Bức rèm hoa đá đặc sắc
Chợ Đà Lạt- Kiến trúc chữ H
…Chợ Đà Lạt đã bắt đầu xây dựng từ năm 1958 và sau đó được Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ chỉnh trang, đặc biệt là thay đổi mặt tiền của nó và thêm cầu bê tông để kết nối khu Hòa Bình (khu B) vào chợ lầu (khu A). Được biết đến với cấu trúc ba tầng, Chợ Đà Lạt là một trong những chợ lầu đầu tiên tại Việt Nam. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cũng đã thiết kế một công viên trước chợ, mở ra hồ Xuân Hương, và xây dựng các dãy phố lầu xung quanh chợ. Bên hông của chợ có các bậc tam cấp dẫn lên đường Lê Đại Hành. Tất cả các yếu tố này đã tạo nên một quần thể kiến trúc hài hòa và esthetically pleasing giữa trung tâm thành phố. Nhờ vào những cải tiến này, Chợ Đà Lạt đã trở thành một điểm đến thú vị cho du khách từ khắp nơi.
Chợ Đà Lạt năm 1970
Chợ Đà Lạt ngày nay
Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh- Giảng đường hình chữ U
Tòa nhà Phượng Vỹ ở Chợ Đà Lạt có một thiết kế đặc biệt, được hình thành theo hình chữ U và mang một ý nghĩa sâu sắc. Theo lời giải thích của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về ý nghĩa của kiến trúc tòa nhà Phượng Vỹ, thiết kế mặt tiền của tòa nhà này được xây dựng theo các đường nét của chữ Hán tự “農” có nghĩa là nông nghiệp. Ý nghĩa của việc này là luôn nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của nông nghiệp, vốn là nguồn gốc của cuộc sống và phát triển của xã hội.
Kiến trúc của tòa nhà Phượng Vỹ sử dụng đường nét thẳng và mạnh mẽ, với vật liệu chính là đá rửa. Bên trong tòa nhà, sàn được lát bằng đá mài màu trắng, tường được xây dựng với tính năng cách âm, và các bề mặt được ốp chân bằng lambri gỗ, tạo ra một không gian sang trọng và đẹp mắt.
Mặt chính giữa…
…và phía bên trái tòa nhà Phượng Vỹ
KTS Ngô Viết Nam Sơn, con trai của KTS Ngô Viết Thụ, cũng đã trở thành một người nổi tiếng trong lĩnh vực kiến trúc không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Ông có phong cách thiết kế riêng biệt, nhưng mang trong mình nhiều tư tưởng và giá trị học hỏi từ cha mình. Ông tự hào chia sẻ về sự tôn kính đối với người cha của mình, KTS Ngô Viết Thụ, và đánh giá cao công trình thiết kế của ông:
“Thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ thể hiện quan niệm kiến trúc Việt Nam hiện đại, không sao chép các chi tiết của kiến trúc cổ điển, nhưng vẫn hài hòa và mang bản sắc văn hóa dân tộc, hoàn toàn đi theo hướng khác với các đóng góp thiết kế dinh của các KTS danh tiếng cùng thời, trong đó đa số hoặc theo xu hướng kiến trúc cổ điển Pháp hoặc mang nặng ảnh hưởng kiến trúc tôn giáo và cung đình.”
Các tác phẩm của KTS Ngô Viết Thụ và KTS Ngô Viết Nam Sơn không chỉ là sự đổi mới và sáng tạo về mặt mỹ thuật và kỹ thuật, mà còn chứa đựng những triết lý sâu sắc và bản sắc độc đáo, đánh dấu sự khởi đầu cho phong cách kiến trúc mang dấu ấn riêng của họ trong nhiều công trình quan trọng như Đại học Nông nghiệp Thủ Đức, Trụ sở Hàng không Việt Nam, Tổ hợp Khách sạn Hương Giang I và II, và nhiều công trình khác.
Tham khảo thêm về: KTS Ngô Viết Nam Sơn
…..
KTS Ngô Viết Thụ đã có một quan điểm và phong cách thiết kế rất độc đáo và ấn tượng, và ông truyền đạt những giá trị và triết lý quan trọng cho kiến trúc của mình, đặc biệt trong các công trình nổi tiếng như Dinh Độc Lập và Chợ Đà Lạt. Ông không chỉ tạo ra những công trình đẹp mắt mà còn tạo ra những tác phẩm mang tính tượng trưng và triết học.
Trong việc thiết kế Dinh Độc Lập, ông đã kết hợp một cách hài hòa giữa kiến trúc hiện đại và kiến trúc truyền thống Phương Đông, tạo ra một công trình mang trong mình những giá trị văn hóa và triết lý sâu sắc. Ông áp dụng các nguyên tắc phong thủy và tượng trưng để thể hiện triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương Đông, và cá tính dân tộc. Các yếu tố như hình chữ T, chữ CÁT, chữ KHẨU, chữ TRUNG, chữ VƯƠNG, chữ CHỦ, và chữ HƯNG được kết hợp hài hòa để thể hiện những giá trị quốc gia và tinh thần lãnh đạo.
Ba của ông đã truyền đạt cho ông những giá trị về phong cách và tinh thần trong thiết kế kiến trúc, thay vì chỉ tập trung vào kỹ thuật cụ thể. Việc tập trung vào tinh thần và tư duy ý tưởng đã giúp ông tạo ra các tác phẩm kiến trúc độc đáo và bền vững qua thời gian.
Một trong 7 bức của bộ tranh Sơn hà cẩm tú được treo ở Dinh Độc Lập
Tranh sơn dầu vẽ hoa ngày Tết năm 1972
Ngõ Trúc
Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (Tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam
..
Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam tại Phường Phước Vĩnh, Thành phố Huế, là một trong những công trình tôn giáo đặc biệt quan trọng và lâu đời tại khu vực này. Lịch sử của nhà thờ này bắt đầu từ năm 1682, khi nó được xây dựng ban đầu bằng tranh tre. Sau đó, vào đầu thế kỷ 20, nhà thờ đã được xây dựng lại bằng đá, tạo nên một công trình vững chắc và đẹp mắt.
Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam có mặt bằng xây dựng theo hình dạng thánh giá, với đầu hướng về phía Nam và đuôi hướng về phía Bắc. Kiến trúc của nhà thờ kết hợp giữa kỹ thuật xây dựng hiện đại và trang trí theo phong cách cổ điển phương Tây. Mặc dù sử dụng các kỹ thuật xây dựng tiên tiến, nhưng nhà thờ vẫn giữ được nét truyền thống và tôn giáo trong thiết kế.
Nhà thờ có lòng rộng lớn, có khả năng chứa đến 2.500 người tham dự lễ kính. Tổng thể kiến trúc của nhà thờ Phủ Cam mang vẻ thanh thoát và nhẹ nhàng, với hai đỉnh nhà thờ vút cao tạo điểm nhấn, kết hợp sự giàu tính nghệ thuật và tôn nghiêm của nơi thực hiện nghi lễ tôn giáo.

Viện nguyên tử Đà Lạt (Nay thuộc viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam)
Đây là lò phản ứng duy nhất ở Đông Dương do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế.
Thiết kế chính là lò phản ứng ở giữa, xung quanh là các phòng làm việc của viện hình vòng cung.
Trường Đại học Sư phạm Huế
Lối kiến trúc độc đáo với giảng đường hình chữ Y
Nhà thờ Bảo Lộc
Bản vẽ thiết kế Việt Nam Quốc Tự
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và giải thưởng Khôi Nguyên La Mã
Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Rôma (hay giải thưởng Khôi Nguyên La Mã) về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955–1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc.
![]() |
KTS Ngô Viết Thụ được bạn bè công kênh lên vai diễu hành. Ảnh do gia đình cung cấp
KTS Ngô Viết Thụ là người duy nhất từ Châu Á đoạt giải Khôi nguyên La Mã, một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp kiến trúc của ông. Cuộc thi này được tổ chức bởi Viện Hàn lâm và là một cuộc thi danh giá ở Pháp. Ông đoạt giải này khi đang là sinh viên kiến trúc tại Paris và sau đó được mời tham dự giải Khôi nguyên La Mã mà không cần thi vòng loại sơ tuyển nhờ vào thành tích xuất sắc của mình tại cuộc thi Paul Bigot.
Cuộc thi Khôi nguyên La Mã diễn ra vào năm 1955 và ông Ngô Viết Thụ đã cạnh tranh với hàng trăm ứng viên xuất sắc khác từ châu Âu. Ông đã đến chung kết cùng với 10 thí sinh cuối cùng. Đề bài cuối cùng của cuộc thi yêu cầu thí sinh phác họa một ngôi thánh đường trên một hòn đảo nhỏ ở khu vực Địa Trung Hải.
Trong quá trình làm bài thi, ông Ngô Viết Thụ đã mắc sai lầm ban đầu khi chọn thiết kế theo phong cách cổ điển. Nhưng ông đã mạo hiểm và quyết định thay đổi toàn bộ phương án thiết kế theo phong cách hiện đại và tư duy sáng tạo hơn, mặc dù thời gian gần kết thúc. Ông đã hoàn thành bài thi đúng thời hạn và được hội đồng chấm thi đánh giá cao. Tuy nhiên, họ đặt câu hỏi về việc ngôi thánh đường không hướng về phía Đông như thông lệ, mà lại hướng theo dòng nước. Ông giải thích rằng điều này là một phần của tư duy sáng tạo của mình và rằng quan trọng hơn là ngôi thánh đường phải được thiết kế sao cho phù hợp và tốt nhất, chứ không phải tuân theo phong tục truyền thống. Ông được công nhận với 28 phiếu thuận của hội đồng chấm thi, chỉ mất một phiếu không thuận. Tuy nhiên, báo chí Pháp đã thông báo rằng ông đã đạt giải với số phiếu tuyệt đối là 28/29, mặc dù thực tế là một trong số các giám khảo đã không bỏ phiếu.
Thành tích của ông Ngô Viết Thụ trong cuộc thi này đã gây tự hào cho người Việt và tạo ra hình ảnh biểu tượng của sự thành công và tự hào dân tộc trong bối cảnh lịch sử phức tạp. Điều này đã xảy ra trong thời kỳ Pháp đã rút khỏi Việt Nam và khi lòng tự hào dân tộc đã bị ảnh hưởng bởi hàng thập kỷ thực dân Pháp.